Thứ ba, 16/4/2024

Quản lý

Facebook

Skip Navigation Links
          >

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung vào gieo trồng lúa mùa, chăm sóc vụ hè thu và thu hoạch lúa hè thu sớm. Tính đến ngày 15/7, cả nước đã gieo cấy được 1.056,3 nghìn ha lúa mùa, bằng 105,9% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 897,2 nghìn ha, bằng 105,5%, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng gieo cấy được 423,6 nghìn ha, bằng 103,7%; các địa phương phía Nam gieo cấy 159,1 nghìn ha, bằng 108,6%. Tiến độ gieo cấy lúa mùa cả nước năm nay nhanh hơn cùng kỳ năm trước chủ yếu do điều kiện thời tiết thuận lợi. Đến nay, các địa phương phía Bắc đã cơ bản hoàn thành công tác gieo cấy. Các địa phương phía Nam, nhất là khu vực Tây Nguyên do không chịu ảnh hưởng của nắng hạn nên xuống giống đảm bảo kế hoạch mùa vụ.

Đến trung tuần tháng Bảy, cả nước gieo cấy được 2.096,2 nghìn ha lúa hè thu, bằng 100,1% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 173,3 nghìn ha, bằng 104%; các địa phương phía Nam đạt 1.923 nghìn ha, bằng 99,8%, riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.649,2 nghìn ha, bằng 98,7%. Một số địa phương có diện tích xuống giống giảm so với cùng kỳ năm trước: Kiên Giang giảm 8,6 nghìn ha; Sóc Trăng giảm 6,5 nghìn ha; An Giang giảm 6,3 nghìn ha. Hiện nay trà lúa hè thu sớm đã cho thu hoạch với diện tích đạt 625,5 nghìn ha, bằng 95,8% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 612,6 nghìn ha, chiếm 37,1% diện tích xuống giống và bằng 94,8%.

Cũng đến thời điểm trên, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã xuống giống được 340,8 nghìn ha lúa thu đông, bằng 95,5% cùng kỳ năm trước. Lúa thu đông tại Đồng bằng sông Cửu Long đang sinh trưởng và phát triển tốt.

Gieo trồng cây rau màu vụ hè thu nhìn chung tăng so với cùng kỳ năm trước do không chịu ảnh hưởng bởi nắng hạn. Tính đến giữa tháng Bảy, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 859,2 nghìn ha ngô, bằng 102,9% cùng kỳ năm trước; 101,3 nghìn ha khoai lang, bằng 106,6%; 55,4 nghìn ha đậu tương, bằng 101,7%; 173 nghìn ha lạc, bằng 104%; riêng rau, đậu đạt 850,4 nghìn ha, bằng 98,6%.

Chăn nuôi lợn những tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn trong khâu tiêu thụ, giá thịt lợn giảm sâu do tình trạng cung vượt cầu. Những ngày gần đây giá thịt lợn tăng nhanh, lên mức 42.000-45.000 đồng/kg, là mức giá người chăn nuôi bước đầu có lãi. Đàn lợn cả nước tháng Bảy ước tính giảm 3,3% so với cùng kỳ năm trước; đàn trâu giảm 0,8%; đàn bò tăng 2,2%; đàn gia cầm tăng 5%. Tính đến ngày 27/7/2017, cả nước không còn dịch bệnh trên gia súc, gia cầm.


Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 7 năm 2017

 

Lâm nghiệp

Trong tháng Bảy, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 19,2 nghìn ha, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 14,1 triệu cây, tăng 0,7%; sản lượng gỗ khai thác đạt 840 nghìn m3, tăng 5,7%; sản lượng củi khai thác đạt 2,2 triệu ste, tăng 0,5%. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác trong tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Thanh Hóa đạt 52,4 nghìn m3, tăng 7,2%; Thừa Thiên - Huế 50,9 nghìn m3, tăng 9,8%; Bắc Giang 46,4 nghìn m3, tăng 10,2%; Nghệ An 39,9 nghìn m3, tăng 24,2%. Tính chung 7 tháng, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 119,7 nghìn ha, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 69,3 triệu cây, tăng 0,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt 5.625 nghìn m3, tăng 6,8%; sản lượng củi khai thác đạt 16,3 triệu ste, giảm 0,6%.

Mặc dù công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng được quan tâm thực hiện, nhưng do thời tiết nắng nóng trong những ngày cuối tháng Sáu nên vẫn xảy ra cháy rừng tại một số địa phương như Lạng Sơn, Bình Định, Hà Giang. Tính chung 7 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.161 ha, giảm 55,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 446 ha, giảm 77,2%; diện tích rừng bị chặt phá là 715 ha, tăng 11%.

Thủy sản

Trong tháng Bảy, sản lượng thủy sản cả nước ước tính đạt 677,4 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 494,6 nghìn tấn, tăng 3,8%; tôm đạt 91,8 nghìn tấn, tăng 13,3%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 388,4 nghìn tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 277,6 nghìn tấn, tăng 3%; tôm đạt 77,2 nghìn tấn, tăng 15,1%. Sản lượng cá tra tháng Bảy ước tính đạt 90,5 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Đồng Tháp đạt 34,5 nghìn tấn; An Giang 18,3 nghìn tấn; Cần Thơ 14,5 nghìn tấn. Nuôi tôm nước lợ đạt khá do thuận lợi về thời tiết và giá tiêu thụ. Sản lượng tôm sú ước tính đạt 19,3 nghìn tấn, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Cà Mau đạt 7 nghìn tấn, tăng 12,9%; Kiên Giang 5,9 nghìn tấn, tăng 59,4%; Bạc Liêu 5,1 nghìn tấn, tăng 14,9%. Sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 52,2 nghìn tấn, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Cà Mau đạt 6,7 nghìn tấn, tăng 42,6%; Trà Vinh 6,3 nghìn tấn, tăng 60%; Bến Tre 2,8 nghìn tấn, tăng 85%. Sản lượng thủy sản khai thác tháng Bảy ước tính đạt 289 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển ước tính đạt 273,8 nghìn tấn, tăng 5,2%.

Tính chung 7 tháng năm 2017, sản lượng thủy sản ước tính đạt 4.006,2 nghìn tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 2.056,6 nghìn tấn, tăng 4,1%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 1.949,6 nghìn tấn, tăng 4,7%.

Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Bảy ước tính tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 3,5%; ngành chế biến, chế tạo tăng 11,3%; sản xuất và phân phối điện tăng 12,2%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 10%.

Tính chung 7 tháng năm 2017, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 7,2% của cùng kỳ năm 2016 nhưng cao hơn mức tăng 6,3% của 6 tháng đầu năm nay. Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,6%, đóng góp 7,45 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9%, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,2%, đóng góp 0,08 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 7,5%, làm giảm 1,64 điểm phần trăm mức tăng chung.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 7 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 34,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 15,2%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,5%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 10,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất, chế biến thực phẩm và sản xuất xe có động cơ cùng tăng 6,4%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 4,3%; khai thác than cứng và than non tăng 3,4%; sản xuất thuốc lá tăng 0,2%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,8%.

Trong 7 tháng năm nay, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Ti vi tăng 36,6%; thép cán tăng 25,2%; sắt, thép thô tăng 24,4%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 20,4%; phân urê tăng 15,2%; sữa bột tăng 12,6%; phân hỗn hợp NPK tăng 10,3%. Một số sản phẩm tăng khá: Xi măng tăng 9,7%; bột ngọt tăng 8,5%; thức ăn cho nuôi trồng thủy sản tăng 8,4%; điện sản xuất tăng 8,2%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Xe máy tăng 4,7%; than đá tăng 4,2%; điện thoại di động tăng 0,6%; ô tô lắp ráp giảm 0,7%; khí đốt thiên nhiên giảm 8,3%; dầu thô khai thác giảm 11,5%; khí hóa lỏng giảm 14,3%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thái Nguyên tăng 21%; Hải Phòng tăng 20,5%; Bắc Ninh tăng 13%; Đà Nẵng tăng 10,6%; Hải Dương tăng 9,9%; Bình Dương tăng 8,7%; Đồng Nai tăng 8,1%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,5%; Quảng Ninh tăng 7,3%; Cần Thơ tăng 6,2%; Hà Nội tăng 6,1%; Vĩnh Phúc tăng 5,2%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 0,2%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6/2017 tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ toàn ngành chế biến, chế tạo tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất kim loại tăng 15,1%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 13%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10,4%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 10,2%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 9,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 9,4%; sản xuất thiết bị điện tăng 9,4%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất đồ uống tăng 5,4%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 4,8%; dệt tăng 2,3%; sản xuất các sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học tăng 1,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm giảm 0,4%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/7/2017 tăng 10,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 5,8%; sản xuất trang phục tăng 5,1%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 2,9%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 1,3%; dệt giảm 1,1%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan giảm 18,9%; sản xuất thuốc lá giảm 21,3%; sản xuất các phương tiện vận tải khác (chủ yếu là đóng tàu) giảm 40,4%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với mức tăng chung: Sản xuất đồ uống tăng 61,6%; sản xuất kim loại tăng 53%; sản xuất thiết bị điện tăng 41,8%; sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại khác (chủ yếu xi măng) tăng 34,4%; sản xuất các sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học tăng 32,3%; sản xuất xe có động cơ tăng 25,5%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 6 tháng đầu năm 2017 là 71,1%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 113,6%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) 104,6%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 95,9%; sản xuất, chế biến thực phẩm 92,8%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/7/2017 tăng 3,9% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 2,2%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,6%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 7,1%. Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 0,3% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 4,4%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 1,3%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,6%.

Lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 01/7/2017 so với cùng thời điểm năm trước của một số địa phương như sau: Bắc Ninh tăng 25,1%; Vĩnh Phúc tăng 13,4%; Bình Dương tăng 7,8%; Hải Phòng tăng 7,3%; Thái Nguyên tăng 5,8%; Hải Dương tăng 5,1%; Đồng Nai tăng 3%; Đà Nẵng tăng 1,3%; Quảng Ninh tăng 1,2%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,4%; Hà Nội giảm 2,8%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 6,6%.


Chỉ số sản xuất công nghiệp
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
Chỉ số tiêu thụ và tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

    Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Trong tháng Bảy, cả nước có 11.677 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 94,5 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% về số doanh nghiệp và giảm 14,5% về số vốn đăng ký so với tháng trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 8,1 tỷ đồng, giảm 21,3%; tổng số lao động đăng ký trong tháng của các doanh nghiệp thành lập mới là 93,5 nghìn người, giảm 11,5%.

Trong tháng, cả nước có 2.123 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 10,5% so với tháng trước; có 5.697 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động (bao gồm: 1.887 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn và 3.810 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể), giảm 11%; có 1.165 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 53,7%.

Tính chung 7 tháng năm nay, cả nước có 72.953 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 690,7 nghìn tỷ đồng, tăng 13,8% về số doanh nghiệp và tăng 39% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 9,5 tỷ đồng, tăng 22,2%. Nếu tính cả 979,8 nghìn tỷ đồng của gần 21,4 nghìn lượt doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 7 tháng  năm 2017 là 1.670,5 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 17.549 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 7 tháng lên hơn 90,5 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng là 720,8 nghìn người, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước.

Theo ngành nghề kinh doanh chính, trong 7 tháng năm 2017 có 25,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới trong ngành bán buôn, bản lẻ (chiếm 35,5% tổng số doanh nghiệp thành lập mới), tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước; 9,6 nghìn doanh nghiệp xây dựng (chiếm 13,2%), tăng 10,3%; 9,5 nghìn doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 13%), tăng 9%; 5,5 nghìn doanh nghiệp khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác (chiếm 7,6%), tăng 10,3%; 3,8 nghìn doanh nghiệp dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác (chiếm 5,2%), tăng 22,2%; 3,5 nghìn doanh nghiệp dịch vụ lưu trú và ăn uống (chiếm 4,8%), tăng 15%; 2,7 nghìn doanh nghiệp kinh doanh bất động sản (chiếm 3,7%), tăng 68%; 1,9 nghìn doanh nghiệp giáo dục và đào tạo (chiếm 2,6%), tăng 29,2%...

Trong 7 tháng năm nay, số doanh nghiệp thành lập mới tại các vùng kinh tế đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vùng Đông Nam Bộ có 30,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 11,9% (vốn đăng ký 349,4 nghìn tỷ đồng, tăng 58,3%); Đồng bằng sông Hồng 22,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 15,4% (vốn đăng ký 167,1 nghìn tỷ đồng, tăng 15%); Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 9,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 10,9% (vốn đăng ký 88,1 nghìn tỷ đồng, tăng 73,2%); Đồng bằng sông Cửu Long 5,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 14,1% (vốn đăng ký 38,4 nghìn tỷ đồng, giảm 14,9%); Trung du và miền núi phía Bắc 3,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 26,5% (vốn đăng ký 33,1 nghìn tỷ đồng, tăng 34,7%); Tây Nguyên 1,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 21,3% (vốn đăng ký 14,6 nghìn tỷ đồng, tăng 41,2%).

Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong 7 tháng năm 2017 là 6.608 doanh nghiệp, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2016 tăng 17,7%), trong đó có 6.104 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 92,4%. Nếu phân theo loại hình doanh nghiệp, trong tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, có 2.705 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 40,9%); 1.936 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 29,3%); 1.116 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 16,9%) và 851 công ty cổ phần (chiếm 12,9%).

Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong 7 tháng là 43.274 doanh nghiệp, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 15.866 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 16,2% và 27.408 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, tăng 21,5%. Trong tổng số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, có 6.639 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 41,8%); 5.023 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 31,7%); 2.700 công ty cổ phần (chiếm 17%); 1.502 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 9,5%) và 2 công ty hợp danh. Đối với doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, có 12.093 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 44,1%); 8.073 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 29,5%); 5.362 công ty cổ phần (chiếm 19,5%) và 1.880 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 6,9%).


Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động theo lĩnh vực hoạt động
Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động theo lĩnh vực hoạt động

    Đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Bảy ước tính đạt 25.679,1 tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 5.934 tỷ đồng; vốn địa phương 19.745,1 tỷ đồng. Tính chung 7 tháng năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 140,2 nghìn tỷ đồng, bằng 47,2% kế hoạch năm và tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2016, gồm có:

- Vốn trung ương quản lý đạt 31,8 nghìn tỷ đồng, bằng 45,2% kế hoạch năm và tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải đạt 17,2 nghìn tỷ đồng, bằng 54,5% và tăng 46,1%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2.361 tỷ đồng, bằng 40,3% và giảm 28,7%; Bộ Y tế 2.126 tỷ đồng, bằng 41,4% và tăng 36,5%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 337 tỷ đồng, bằng 47,3% và giảm 65,7%; Bộ Xây dựng 284 tỷ đồng, bằng 58,7% và giảm 42,6%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 241 tỷ đồng, bằng 41% và giảm 13,4%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 235 tỷ đồng, bằng 40,1% và giảm 33,4%; Bộ Công Thương 122 tỷ đồng, bằng 50,1% và giảm 46%; Bộ Thông tin và Truyền thông 42 tỷ đồng, bằng 43,8% và giảm 33,3%; Bộ Khoa học và Công nghệ 42 tỷ đồng, bằng 44,2% và giảm 65,3%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 108,4 nghìn tỷ đồng, bằng 47,8% kế hoạch năm và tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 74,8 nghìn tỷ đồng, bằng 44,9% và tăng 4,8%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 28 nghìn tỷ đồng, bằng 54,5% và tăng 15,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 5.660 tỷ đồng, bằng 65,3% và tăng 11,6%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 17,3 nghìn tỷ đồng, bằng 53,4% kế hoạch năm và tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 9.636 tỷ đồng, bằng 28,3% và tăng 6,6%; Nghệ An 3.538 tỷ đồng, bằng 54,8% và tăng 16,3%; Quảng Ninh 3.175 tỷ đồng, bằng 43,4% và tăng 20,3%; Bình Dương 3.104 tỷ đồng, bằng 43,4% và tăng 13,3%; Vĩnh Phúc 3.032 tỷ đồng, bằng 50,6% và tăng 18,8%; Thanh Hóa 2.633 tỷ đồng, bằng 55,1% và tăng 9%; Cần Thơ 2.400 tỷ đồng, bằng 76% và tăng 20%.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trong tháng Bảy cao hơn tháng trước và cùng kỳ năm trước nhưng nhìn chung tình hình giải ngân và thực hiện nguồn vốn này trong 7 tháng năm nay còn chậm. Các Bộ, ngành và địa phương cần tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn, bảo đảm kế hoạch đề ra.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/7/2017 thu hút 1.378 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 12,9 tỷ USD, giảm 2,1% về số dự án và tăng 48,7% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó, có 677 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5,9 tỷ USD, tăng 38,5% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong 7 tháng năm 2017 lên 18,8 tỷ USD, tăng 45,3% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong 7 tháng năm 2017 có 2.946 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 3,1 tỷ USD. Như vậy, tính chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần 7 tháng đạt 21,9 tỷ USD, tăng 52% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 7 tháng ước tính đạt 9,1 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong 7 tháng, ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt 5,3 tỷ USD, chiếm 40,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 4,5 tỷ USD, chiếm 35,2%; các ngành còn lại đạt 3,1 tỷ USD, chiếm 24,1%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước và góp vốn, mua cổ phần thì tổng vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong 7 tháng năm nay đạt 10,8 tỷ USD, chiếm 49,4% tổng vốn đăng ký; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 5,3 tỷ USD, chiếm 24%; các ngành còn lại đạt 5,8 tỷ USD, chiếm 26,6%.

Trong 7 tháng năm nay, cả nước có 53 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Thanh Hóa có số vốn đăng ký lớn nhất với 3.054,5 triệu USD, chiếm 23,6% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Nam Định 2.125,9 triệu USD, chiếm 16,4%; Kiên Giang 1.337,8 triệu USD, chiếm 10,3%; Bình Dương 1.043,3 triệu USD, chiếm 8,1%; thành phố Hồ Chí Minh 744,1 triệu USD, chiếm 5,8%; Tây Ninh 694,2 triệu USD, chiếm 5,4%; Hà Nội 582,4 triệu USD, chiếm 4,5%; Bắc Giang 515,6 triệu USD, chiếm 4%; Đồng Nai 297,6 triệu USD, chiếm 2,3%; Bình Phước 282,9 triệu USD, chiếm 2,2%.

Trong số 62 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 7 tháng, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất với 4.808,3 triệu USD, chiếm 37,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 2.815,7 triệu USD, chiếm 21,8%; Hàn Quốc 1.937,5 triệu USD, chiếm 15%; Trung Quốc 1.221,3 triệu USD, chiếm 9,4%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ) 552,1 triệu USD, chiếm 4,3%; CHLB Đức 322,3 triệu USD, chiếm 2,5%.


Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/1 - 20/7/2017

    Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/7/2017 ước tính đạt 584,6 nghìn tỷ đồng, bằng 48,2% dự toán năm, trong đó thu nội địa 462,6 nghìn tỷ đồng, bằng 46,7%; thu từ dầu thô 24,6 nghìn tỷ đồng, bằng 64,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 96,1 nghìn tỷ đồng, bằng 53,4%. Trong thu nội địa, thu tiền sử dụng đất đạt 56 nghìn tỷ đồng, bằng 87,9% dự toán năm; thu thuế thu nhập cá nhân 43,8 nghìn tỷ đồng, bằng 54,1%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 90,5 nghìn tỷ đồng, bằng 46,6%; thu thuế bảo vệ môi trường 20,4 nghìn tỷ đồng, bằng 45,1%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 84,2 nghìn tỷ đồng, bằng 41,9%; thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 95 nghìn tỷ đồng, bằng 33,2%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/7/2017 ước tính đạt 646,4 nghìn tỷ đồng, bằng 46,5% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 474 nghìn tỷ đồng, bằng 52,9%; chi trả nợ lãi 60,1 nghìn tỷ đồng, bằng 60,8%; riêng chi đầu tư phát triển mới đạt 110,4 nghìn tỷ đồng, bằng 30,9% dự toán năm. Chi trả nợ gốc từ đầu năm đến thời điểm 15/7/2017 ước tính đạt 110 nghìn tỷ đồng, bằng 67,1% dự toán năm.

Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Bảy ước tính đạt 327,6 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 244,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2% và tăng 10%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 41,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% và tăng 11,3%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,4% và tăng 15,1%; doanh thu dịch vụ khác đạt 38,4 nghìn tỷ đồng, giảm 0,4% và tăng 10,4%.

Tính chung 7 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 2.248,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 8,7% (cao hơn mức tăng 8,4% của cùng kỳ năm 2016). Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 7 tháng năm nay ước tính đạt 1.685,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 74,9% tổng mức và tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 10,7%; may mặc tăng 9,6%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 8,9%; phương tiện đi lại tăng 7,8%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 4,8%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 7 tháng ước tính đạt 278,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,4% tổng mức và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước (cao hơn mức tăng 8,8% của cùng kỳ năm 2016) do lượng khách quốc tế và du lịch trong nước tăng khá và hoạt động ăn uống ngoài gia đình không còn chịu ảnh hưởng từ sự cố ô nhiễm môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung năm 2016. Một số địa phương có doanh thu tăng khá: Bình Định tăng 20,7%; Đồng Nai tăng 15%; Thanh Hóa tăng 13,9%; Hà Nội tăng 10,1%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,2%.

Doanh thu du lịch lữ hành 7 tháng năm nay ước tính đạt 19,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% tổng mức và tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu của Tiền Giang tăng 16,2%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 12,5%; Hải Phòng tăng 11,5%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 9,5%; Hà Nội tăng 8%; An Giang giảm 7,6%; Thái Bình giảm 4,4%; Kiên Giang giảm 4,4%; Nam Định giảm 3,3%; Đà Nẵng giảm 2,3%.

Doanh thu dịch vụ khác 7 tháng ước tính đạt 264,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,8% tổng mức và tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu của Bình Định tăng 19,3%; Thanh Hóa tăng 18,0%; Khánh Hòa tăng 14,9%; Hải Phòng tăng 11,6%; Vĩnh Phúc tăng 10,7%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 8,8%; Hà Nội tăng 5,7%.


Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

    Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 6/2017 đạt 17.795 triệu USD, thấp hơn 5 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng Bảy, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 17,50 tỷ USD, giảm 1,7% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,90 tỷ USD, giảm 3,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 12,60 tỷ USD, giảm 1%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảmso với tháng trước: Dầu thô giảm 23,5%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 5,2%; điện thoại và linh kiện giảm 4%; giày, dép giảm 3,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác giảm 2,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Bảy tăng 17,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 13,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 19,9%.

Tính chung 7 tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 115,2 tỷ USD, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 32,2 tỷ USD, tăng 14,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 83,0 tỷ USD, tăng 20,3%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 22,6 tỷ USD, tăng 15%; dệt may đạt 14,2 tỷ USD, tăng 8,1%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 13,6 tỷ USD, tăng 43,3%; giày, dép đạt 8,4 tỷ USD, tăng 12,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 6,9 tỷ USD, tăng 29,5%; thủy sản đạt 4,3 tỷ USD, tăng 18,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,3 tỷ USD, tăng 12,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4 tỷ USD, tăng 20%; cà phê đạt 2,1 tỷ USD, tăng 8,3% (lượng giảm 16%); rau quả đạt 2 tỷ USD, tăng 44,4%; dầu thô đạt 1,8 tỷ USD, tăng 36,1% (lượng tăng 12,3%). Một số mặt hàng kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước: Hạt tiêu đạt 803 triệu USD, giảm 18% (lượng tăng 21,1%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 569 triệu USD, giảm 7,5% (lượng giảm 0,3%).

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 7 tháng đạt 23,4 tỷ USD, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là EU đạt 21,5 tỷ USD, tăng 12,8%; Trung Quốc đạt 15,5 tỷ USD, tăng 42,6%; ASEAN đạt 12,3 tỷ USD, tăng 27,1%; Nhật Bản đạt 9,6 tỷ USD, tăng 20,6%; Hàn Quốc đạt 7,6 tỷ USD, tăng 26,4%.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 6/2017 đạt 18.087 triệu USD, cao hơn 87 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng Bảy, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 17,8 tỷ USD, giảm 1,6% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,1 tỷ USD, giảm 2,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10,7 tỷ USD, giảm 1,2%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Bảy tăng 23,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 20%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 26%.

Tính chung 7 tháng, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 118,3 tỷ USD, tăng 24% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 46,9 tỷ USD, tăng 18,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 71,4 tỷ USD, tăng 28,1%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 21,4 tỷ USD, tăng 37,4%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 19,2 tỷ USD, tăng 27,4%; điện thoại và linh kiện đạt 7,3 tỷ USD, tăng 30,6%; vải đạt 6,5 tỷ USD, tăng 9,2%; sắt thép đạt 5,2 tỷ USD, tăng 16,7% (lượng giảm 18,6%); chất dẻo đạt 4,1 tỷ USD, tăng 24,4% (lượng tăng 15,2%); xăng dầu đạt 3,9 tỷ USD, tăng 32,3% (lượng tăng 4%); kim loại thường đạt 3,1 tỷ USD, tăng 20% (lượng giảm 13,4%); sản phẩm chất dẻo đạt 2,9 tỷ USD, tăng 21,5%; sản phẩm hóa chất đạt 2,5 tỷ USD, tăng 19,4%; hóa chất đạt 2,3 tỷ USD, tăng 32,6%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 2,1 tỷ USD, tăng 11,8%.

Về thị trường nhập khẩu 7 tháng năm nay, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 31,7 tỷ USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm 2016; tiếp đến là Hàn Quốc đạt 26,7 tỷ USD, tăng 50,8%; ASEAN đạt 16 tỷ USD, tăng 19,7%; Nhật Bản đạt 9,2 tỷ USD, tăng 11,6%; EU đạt 6,8 tỷ USD, tăng 14,8%; Hoa Kỳ đạt 5,5 tỷ USD, tăng 22,7%.

Cán cân thương mại thực hiện tháng Sáu nhập siêu 292 triệu USD; tháng Bảy ước tính nhập siêu 300 triệu USD. Tính chung 7 tháng năm 2017 nhập siêu 3,08 tỷ USD, bằng 2,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 14,77 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 11,69 tỷ USD.


Hàng hóa xuất khẩu
Hàng hóa nhập khẩu

    Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2017 tăng 0,11% so với tháng trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chủ yếu, 8 nhóm có chỉ số giá tháng Bảy tăng so với tháng trước, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,54% (lương thực giảm 0,08%; thực phẩm tăng 0,87%); thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,36% (dịch vụ y tế tăng 0,46%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,09%; giáo dục tăng 0,05%; nhóm đồ uống, thuốc lá và may mặc, mũ nón, giày dép cùng tăng 0,04%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,03%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,73%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm: Giao thông giảm 1,52%, chủ yếu do ảnh hưởng từ đợt điều chỉnh giảm giá xăng, dầu tại thời điểm 5/7/2017 làm giá nhiên liệu giảm 3,16% (tác động làm CPI chung giảm 0,14%); bưu chính, viễn thông giảm 0,06%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,03%.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 7 tháng năm 2017 tăng 3,91% so với bình quân cùng kỳ năm 2016. CPI tháng 7/2017 tăng 0,31% so với tháng 12/2016 và tăng 2,52% so với cùng kỳ năm trước.

Lạm phát cơ bản tháng 7/2017 tăng 0,11% so với tháng trước và tăng 1,30% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 7 tháng tăng 1,49% so với bình quân cùng kỳ năm 2016.

Chỉ số giá vàng tháng 7/2017 giảm 0,88% so với tháng trước; tăng 2,25% so với tháng 12/2016 và giảm 1,80% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 7/2017 tăng 0,09% so với tháng trước; giảm 0,03% so với tháng 12/2016 và tăng 1,80% so với cùng kỳ năm 2016.


Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng, chỉ số giá đô la Mỹ à lạm phát cơ bản tháng 7 năm 2017

    Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách tháng Bảy ước tính đạt 342,2 triệu lượt khách, tăng 1,6% so với tháng trước và 15,2 tỷ lượt khách.km, tăng 0,1%. Tính chung 7 tháng, vận tải hành khách đạt 2.319,7 triệu lượt khách, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước và 104,1 tỷ lượt khách.km, tăng 8,8%, trong đó vận tải hành khách đường bộ đạt 2.186,3 triệu lượt khách, tăng 10,3% và 71 tỷ lượt khách.km, tăng 7,8%; đường hàng không đạt 24,8 triệu lượt khách, tăng 10,2% và 28,6 tỷ lượt khách.km, tăng 11,8%; đường sắt đạt 6,2 triệu lượt khách, giảm 1,5% và 2,5 tỷ lượt khách.km, tăng 6,6%; đường biển đạt 3,8 triệu lượt khách, tăng 10,8% và 199,1 triệu lượt khách.km, tăng 11,8%.

Vận tải hàng hóa tháng Bảy ước tính đạt 119,8 triệu tấn, tăng 0,8% so với tháng trước và 22,3 tỷ tấn.km, giảm 0,7%. Tính chung 7 tháng, vận tải hàng hóa đạt 825 triệu tấn, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước và 152,9 tỷ tấn.km, tăng 6%, trong đó vận tải trong nước đạt 805,8 triệu tấn, tăng 9,4% và 76 tỷ tấn.km, tăng 10,9%; vận tải ngoài nước đạt 19,2 triệu tấn, tăng 0,5% và 76,9 tỷ tấn.km, tăng 1,6%. Xét theo ngành vận tải, đường bộ đạt 641 triệu tấn, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước và 40,3 tỷ tấn.km, tăng 11,5%; đường sông đạt 141,1 triệu tấn, tăng 7% và 30 tỷ tấn.km, tăng 7,5%; đường biển đạt 39,5 triệu tấn, tăng 9,8% và 80,2 tỷ tấn.km, tăng 2,9%; đường sắt đạt 3,2 triệu tấn, tăng 5,8% và 2 tỷ tấn.km, tăng 8,7%.


Vận tải hành khách và hàng hoá

    Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Bảy ước tính đạt 1.036,9 nghìn lượt người, tăng 9,2% so với tháng trước, trong đó: Khách đến bằng đường hàng không tăng 6,4%; bằng đường bộ tăng 31,1%; đáng chú ý là số lượng khách quốc tế đến bằng đường biển tăng mạnh, gấp hơn 2 lần do trong tháng đón 3 tàu du lịch quốc tế có tải trọng lớn đến Việt Nam. So với cùng kỳ năm trước, khách quốc tế đến nước ta trong tháng tăng 21,1%, trong đó khách đến từ châu Á tăng 24,3%; từ châu Âu tăng 11,1%; từ châu Mỹ tăng 9,4%; từ châu Úc tăng 17,8%; từ châu Phi tăng 34,4%.

Tính chung 7 tháng năm nay, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 7.243,2 nghìn lượt người, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 6.119,2 nghìn lượt người, tăng 31,3%; đến bằng đường bộ đạt 945,9 nghìn lượt người, tăng 17,3%; đến bằng đường biển đạt 178,1 nghìn lượt người, tăng 13,3%.

Trong 7 tháng, khách đến từ châu Á đạt 5.357,7 nghìn lượt người, tăng 33,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ hầu hết các thị trường chính đều tăng: Khách đến từ Trung Quốc đạt 2.216,8 nghìn lượt người, tăng 51%; Hàn Quốc 1.259,8 nghìn lượt người, tăng 46,8%; Nhật Bản 437,5 nghìn lượt người, tăng 5,9%; Đài Loan 357,7 nghìn lượt người, tăng 20,8%; Ma-lai-xi-a 264,4 nghìn lượt người, tăng 16,9%; Thái Lan 170,3 nghìn lượt người, tăng 10,9%; Xin-ga-po 151,6 nghìn lượt người, tăng 7%.

Khách đến từ châu Âu ước tính đạt 1.114,7 nghìn lượt người, tăng 22,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khách đến từ Liên bang Nga 348,1 nghìn lượt người, tăng 49,3%; Vương quốc Anh 166,7 nghìn lượt người, tăng 12,9%; Pháp 154,3 nghìn lượt người, tăng 8,5%; Đức 114,8 nghìn lượt người, tăng 17,8%; Hà Lan 39,9 nghìn lượt người, tăng 15,6%; I-ta-li-a 31,4 nghìn lượt người, tăng 14,4%; Thụy Điển 30,8 nghìn lượt người, tăng 19,6%.

Khách đến từ châu Mỹ đạt 505 nghìn lượt người, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hoa Kỳ đạt 377 nghìn lượt người, tăng 9,5%. Khách đến từ châu Úc đạt 245,8 nghìn lượt người, tăng 10,9%, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 218 nghìn lượt người, tăng 11,4%. Khách đến từ châu Phi đạt 20 nghìn lượt người, tăng 28,1% so với cùng kỳ năm 2016.


Khách quốc tế đến Việt Nam

 

Một số tình hình xã hội

Thiếu đói trong nông dân

Trong tháng Bảy, cả nước có 3,1 nghìn hộ thiếu đói, giảm 86,6% so với cùng kỳ năm 2016, tương ứng với 12,5 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 87,2%. Tính chung 7 tháng năm 2017, cả nước có 158,8 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 32,3% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 651 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 33%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm đến nay, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 17,2 nghìn tấn lương thực và khoảng 1,1 tỷ đồng.

Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong tháng 7/2017, cả nước có 9,9 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 80 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 110 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (5 trường hợp tử vong); 3 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu; 56 trường hợp mắc bệnh viêm não Nhật Bản (3 trường hợp tử vong); 104 trường hợp mắc bệnh ho gà và 27 trường hợp mắc bệnh liên cầu lợn ở người (3 trường hợp tử vong). Đáng lưu ý dịch bệnh sốt xuất huyết đang diễn biến phức tạp, đặc biệt là tại Hà Nội và một số địa phương phía Nam như Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh với 16,9 nghìn trường hợp mắc bệnh trong tháng (5 trường hợp tử vong). Tính chung 7 tháng, cả nước có gần 31,6 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 53,4 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (14 trường hợp tử vong); 331 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 385 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (13 trường hợp tử vong); 22 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (3 trường hợp tử vong); 93 trường hợp mắc bệnh viêm não Nhật Bản (3 trường hợp tử vong); 27 trường hợp nhiễm vi rút Zika; 438 trường hợp mắc bệnh ho gà (5 trường hợp tử vong) và 107 trường hợp mắc bệnh liên cầu lợn ở người (9 trường hợp tử vong).

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 17/7/2017 là 218,8 nghìn người, trong đó 90,2 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS; số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 91,4 nghìn người.

Trong tháng đã xảy ra 5 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 609 người bị ngộ độc. Tính từ 18/12/2016 đến 17/7/2017, trên địa bàn cả nước xảy ra 64 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 1.955 người bị ngộ độc, trong đó 17 trường hợp tử vong.

Tai nạn giao thông

Trong tháng (từ 16/6 đến 15/7), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1.579 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 751 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 828 vụ va chạm giao thông, làm 627 người chết, 414 người bị thương và 887 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Bảy giảm 2,8% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 4,5% và số vụ va chạm giao thông giảm 1,3%); số người chết giảm 5,1%; số người bị thương giảm 0,2% và số người bị thương nhẹ giảm 4,8%. Đáng chú ý là trong tháng đã xảy ra một số vụ tai nạn giao thông đường bộ đặc biệt nghiêm trọng như: Vụ tai nạn trên quốc lộ 14 đi qua xã Đắk Hrinh (Kon Tum) ngày 30/6 đã làm 4 người chết và 12 người bị thương; vụ tai nạn trên cao tốc Hà Nội - Lào Cai ngày 1/7 đã làm 13 người bị thương; vụ tai nạn trên quốc lộ 1 thuộc xã Hồng Sơn (Bình Thuận) ngày 19/7 đã làm 3 người chết và 17 người bị thương.

Tính chung 7 tháng năm 2017, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 11.172 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 5.548 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 5.624 vụ va chạm giao thông, làm 4.761 người chết, 2.800 người bị thương và 6.436 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 7 tháng năm nay giảm 5,8% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 4,8%; số vụ va chạm giao thông giảm 6,7%); số người chết giảm 5,2%; số người bị thương giảm 15,7% và số người bị thương nhẹ giảm 7,6%. Trong tổng số 5.548 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên 7 tháng vừa qua, có 5.391 vụ (chiếm 97,2%) xảy ra ở đường bộ, làm 4.644 người chết và 2.754 người bị thương; tai nạn giao thông đường sắt có 90 vụ, làm 78 người chết và 30 người bị thương; tai nạn giao thông đường thủy và hàng hải có 67 vụ, làm 39 người chết và 16 người bị thương. Bình quân 1 ngày trong 7 tháng năm 2017, trên địa bàn cả nước xảy ra 53 vụ tai nạn giao thông, gồm 26 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 27 vụ va chạm giao thông, làm 22 người chết, 13 người bị thương và 30 người bị thương nhẹ.

Thiệt hại do thiên tai

Trong tháng Bảy, mưa lớn, bão, lũ, lốc xoáy... đã ảnh hưởng nặng nề tới sản xuất và đời sống dân cư nhiều địa phương trong cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai làm 48 người chết, mất tích và 47 người bị thương; gần 19,8 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, sập đổ; 26,2 nghìn ha lúa và 14,2 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính khoảng 1,9 nghìn tỷ đồng. Riêng cơn bão số 2 đổ bộ vào các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày 16/7 và hoàn lưu bão gây mưa lớn đã làm 15 người chết, mất tích và 33 người bị thương; gần 16,8 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, sập đổ; 34,4 nghìn ha lúa, hoa màu và 813 ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại ước tính khoảng 1,6 nghìn tỷ đồng.

Tính chung 7 tháng năm 2017, thiên tai làm 75 người chết, mất tích và 77 người bị thương; gần 25,9 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, sập đổ; 33,8 nghìn ha lúa và 18,1 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại trong 7 tháng ước tính khoảng 2,3 nghìn tỷ đồng.

Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

 Trong tháng 7/2017, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.256 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường, trong đó xử lý 1.007 vụ với tổng số tiền phạt hơn 10,2 tỷ đồng. Tính chung 7 tháng năm 2017, đã phát hiện 10.776 vụ vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 8.927 vụ với tổng số tiền phạt hơn 124 tỷ đồng.

Trong tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 298 vụ cháy, nổ, làm 11 người chết và 30 người bị thương, thiệt hại ước tính 137 tỷ đồng. Tính chung 7 tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 2.659 vụ cháy, nổ, làm 60 người chết và 159 người bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 1.137 tỷ đồng./.

(Theo http://gso.gov.vn)


 

TIN NỔI BẬT